Rủi ro từ việc chuyển nhượng bất động sản qua hình thức lập vi bằng

Dù đã được cảnh báo và bị cấm mua bán nhà đất bằng hình thức lập vi bằng, nhưng thời gian qua tại nhiều địa phương trên địa bàn TP.HCM các đối tượng mua bán nhà đất vẫn lợi dụng hình thức này để lừa bán nhà đất.

Vi bằng là văn bản do thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, ghi nhận các hành vi thực hiện giao dịch, thỏa thuận; mô tả hiện trạng tài sản, công trình; ghi nhận lời khai của người làm chứng; ghi nhận hành vi, thời điểm diễn ra các giao dịch mua bán; ghi nhận sự kiện diễn ra cuộc họp của công ty; ghi nhận hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ; ghi nhận hành vi bàn giao tiền, tài sản, giấy tờ; ghi nhận tình trạng thiệt hại của cá nhân, tổ chức... được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.

Hiện nay, tình trạng thừa phát lại lập vi bằng nhằm mục đích mua bán, chuyển nhượng đất đai, tài sản không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu diễn ra ngày càng nhiều ở các địa phương, dưới hình thức ghi nhận việc giao nhận tiền theo biên bản tự thỏa thuận của các bên và ghi nhận lời nói, cuộc trao đổi giữa các bên... Việc này dẫn đến tình trạng người dân nhầm lẫn giá trị pháp lý của vi bằng với giá trị của văn bản công chứng, chứng thực, kéo theo các tranh chấp, khiếu kiện, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội.

Theo quy định tại điểm a khoản 3 điều 167 Luật Đất đai năm 2013: Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực. Thẩm quyền công chứng, chứng thực thuộc về Ủy ban nhân dân cấp xã; Phòng tư pháp cấp huyện; cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài; Phòng công chứng và Văn phòng công chứng.

Thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, nhưng không thuộc các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật (theo quy định tại Nghị định 135/2013/NĐ-CP). Vì thế, vi bằng không phải là văn bản công chứng, chứng thực; vi bằng cũng không xác nhận tính hợp pháp của các hợp đồng/giao dịch về bất động sản. Vi bằng có thể được lập để ghi nhận việc giao nhận đất nền hay giao nhận tiền, nhưng không có giá trị thay thế Văn bản/Hợp đồng chuyển nhượng bất động sản được công chứng, chứng thực. Vì vậy, cần lưu ý xác định rõ giá trị của vi bằng trong giao dịch về bất động sản để tránh rủi ro có thể xảy ra.